Những người thợ săn thường kể rằng, cáo không bao giờ đem mồi về gần hang nếu cáo con không có nhà. Và trong các câu chuyện của người đi săn đôi lúc cũng có những điều nói đúng.
PHẦN THỨ I – THỜI THƠ ẤU VÀNG SON
I – MÁI NHÀ THÂN YÊU
Mặt trời đã khuất sau rặng núi Gonde, và ánh hoàng hôn êm dịu mà tất cả các loài thú đều yêu thích đang trải dài trên một dải đồi núi và bình nguyên bao la. Ráng chiều sáng rực, phủ ánh hào quang hiền dịu lên những thung lũng xin xắn như muốn ngăn cản màn đêm. Cao trên ngọn đồi gần sông Sôban là một cánh rừng thông nho nhỏ đang độ xanh rờn. Ở đây thật dễ chịu và yên tĩnh lúc chiều tà. Giữa khu rừng đó trên khoảng rừng thưa có một gia đình nhà cáo. Lối vào hang nằm khuất ở ngay bìa rừng. Đúng giờ này cả gia đình cao chui ra ngoài nô đùa và tận hưởng hơi mát lúc chiều hôm.
Cáo mẹ theo dõi bầy con nô đùa. Nó rất sốt sắng duy trì cuộc vui chung. Lũ cáo con nhiều lông tơ mềm mại nô đùa không hề quan tâm đến thực chất của cuộc sống vừa mới bắt đầu trong khi người mẹ dồn hết cả sức lực cao cả vào việc phục vụ chúng, và đối với chúng dĩ nhiên tất cả thế giới này đều là bạn. Chúng nô đùa và ẩu đả, chúng đuổi bắt nhau trong niềm vui mãnh liệt không gì kìm hãm, đuổi theo cả lũ ruồi bọ, hít hít một cách dũng cảm những con ong đất béo tròn và chạy như điên để cố tóm lấy cái chót đuôi của mẹ hoặc giật của nhau mẩu thức ăn cũ nào đó đã quăng bỏ từ lâu.
Chúng nô đùa cốt để giải trí và thỏa mãn với bất cứ lí do nào khiến cho chúng lại được chạy nhảy tứ tung.
Chiều hôm đó trò chơi của lũ cáo con là một cái cánh vịt đã khô queo. Hàng chục lần nó bị thảy qua thảy lại từ con nọ sang con kia. Nhưng cuối cùng thì chú cáo con lanh lợi nhất có một khoang đen ngang mõm chiếm được cánh vịt. Nó không nhường cho ai cả và bắt đầu ngậm vật đoạt được chạy vòng tròn cho đến lúc những con cáo kia chán cái trò đuổi bắt vô bổ này. Nó liền nhả cái cánh ra và bám luôn lấy đuôi mẹ mà lắc mà giật cho đến khi mẹ nó bất ngờ nhảy lên hất đuổi đi khiến cho kẻ hay gây rối ngã ngửa ra.
Giữa lúc nhốn nháo đó, bống trên bãi trống xuất hiện một con cáo già. Vừa nhác thấy nó cáo mẹ đứng phắt lên và lũ cáo con hoảng sợ, nhưng hình dáng quen thuộc của con cáo kia lập tức làm cho chúng yên tâm. Nó chính là con cáo bố.
Nó mang thức ăn tới cho nên tất cả đều hướng mắt và mũi về phía nó. Cáo bố đặt vật mang về xuống đất, đó là một con chuột xạ vừa bị cắn chết và cáo mẹ vội chạy đến.
Những người thợ săn thường kể rằng, cáo không bao giờ đem mồi về gần hang nếu cáo con không có nhà. Và trong các câu chuyện của người đi săn đôi lúc cũng có những điều nói đúng.
Cáo mẹ xé con chuột xạ ra cho bầy con và chúng lao ngay vào. Chúng giằng co, giành giật con mồi, tru lên, giương mắt nhìn nhau dữ tợn, con nào con nấy đều hục hặc lúc lắc cúi đầu, cố gắng đoạt lấy phần thức ăn của mình.
Cáo mẹ nhìn thấy con om xòm xung quanh con chuột chết, đồng thời vẫn quan sát cả khu rừng. Ở đó luôn ẩn nàu những kẻ thù thâm độc: bọn người có súng ống, lũ trẻ với bầy chó, chim ưng và cú vọ, chim ưng và cú vọ, tất cả đều thèm muốn săn bắt lũ cáo con.
Cáo mẹ thường xuyên thận trọng và cáo chồng cũng giúp đỡ nó trong công việc này. Mặc dù cáo bố giữ vai trò thứ yếu trong việc gia đình, và tạm thời khi cáo con còn chưa mở mắt thì thậm chí không được vào hang, nhưng nó vẫn tự nuyện mang thức ăn về và canh gác trước hang.
Bữa tiệc vui vẻ của bầy con đang lúc sôi nổi nhất thì bỗng nhiên từ xa đưa lại tiếng kêu “ua, ua, ua, áp” của cáo bố. Đó là tín hiệu báo mối nguy hiểm đang đến gần. Giá như lũ cáo con già dặn hơn một chút thì chúng đã hiểu nghĩa của tín hiệu đó. Nhưng chúng còn quá bé, nên cáo mẹ vội vàng giải thích để cho chúng biết phải làm gì. Sau khi nhắc lại cho bầy cáo con nghe tiếng kêu xa xa của cáo bố bằng một giọng trầm trầm đầy đe dọa, cáo mẹ lùa chúng vào trong cái hang tranh tối tranh sáng để chúng có thể bình tĩnh ăn hết con chuột xạ.
Chỉ tính ở một trang trại của vùng Niu Ierlan thôi cũng đã có không dưới một ngàn cặp cáo sinh sống. Mỗi cặp hàng năm lại cho ra đời một lứa cáo mới, và vì thế rất có thể những cảnh vừa mô tả trên đây xảy ra thường xuyên trước mỗi hang cáo vào những ngày xuân đẹp trời. Từ đó suy ra rằng, mỗi năm có trên một trăm ngàn lần cảnh như thế này lặp đi lặp lại ngay trước trước mắt chúng ta. Tuy nhiên tất cả những cảnh này đều diễn ra trong bí mật và bố mẹ lũ thú rừng thận trọng đến mức, rất có thể chỉ có một người trong số một trăm ngàn người mới có diễm phúc được chúng kiến cái khung cảnh gia định tương tự như thế.
Ở Gonde con người hạnh phúc duy nhất trong số một trăm ngàn người đó lại chính là Apne Giucxo. Đó là một cậu bé cao ngồng, tóc bạck kim, mặt đầy tàn nhang, lúc nào cũng leo trèo trên cây tìm tổ quạ thay vì chăn dắt bò.
Cậu theo dõi bầy cáo nô đùa không phải như mọi đứa bé bất kỳ mà theo dõi với sự hồi hộp của một nhà tự nhiên học tương lai. Cậu chú ý ngay đến một con cáo con cái vệt đen ngang mõm trông như chiếc mặt nạ ở bộ áo domino dùng trong ngày hội giả trang, và sung sướng mỉm cười với nó.
Cậu bé không hề có ý nghĩa quấy rầy cuộc giải trí của bầy cáo con, nhưng dù sao cậu cũng là kẻ ngẫu nhiên có lỗi làm cho cuộc vui dừng lại bất ngờ và gây ra tất cả thảm họa sẽ giáng xuống đầu gia đình cáo sau này.
Apne chỉ săn cáo vào mùa đông. Cậu rất tự hào, về con chó săn của mình, nó đầy hứa hẹn sẽ trở thành một con chó nòi tốt nhất trong toàn bang. Sự thực tạm thời thì đó chưa phải là con chó trưởng thành mà mới là một chú cún con, nhưng là chú cún có những cẳng chân khá to, cái bụng thon và bộ ngực nở. Giọng nó rất khỏe, vang xa, và căn cứ vào tính tình hung hăng dễ cáu thì lúc lớn nó sẽ là một con chú dữ. Apne thường nhốt nó ở trong nhà nhưng lần này không hiểu sao nó thoát ra ngoài được và dĩ nhiên là nó chạy ngay đi tìm cậu chủ. Nó tới gần làm cho cáo bố lo sợ.
Sau khi biết chắc tất cả bảy đứa con thơ dại yêu quý đã ở ngoài vòng nguy hiểm, cáo mẹ liền chạy ngay ra đối mặt với kẻ thù. Nó cố ý chọn con đường để lọt ngay vào tầm mắt con chó lúc con này chạy gần tới hang, và quả nhiên nó nghe thấy tiếng sủa lanh lảnh khiến cho ngay cả trái tim đã được tôi luyện của chồng nó cũng phải đập mạnh.
Nhưng giờ đây nó không nghĩ gì đến bản thân mình. Nó thu hút sự chú ý của con chó về phía mình, và khi đã cảm thấy chạy được cách hang một khoảng vừa đủ bảo đảm an toàn cho hang là nó bứt luôn khỏi con chó, làm rối loạn dấu vết và quay trở về hang. Ở nhà mọi việc vẫn đâu vào đấy. Chỉ có con cáo con mõm đen mọi khi hay chạy đón mẹ ngay lối ra vào, lần này nép vào xó sâu nhất trong hang và chúi mũi vào cát.
Năm phút trước nó còn ngó ra ngoài hang, những đến khi nghe thấy tiếng chó sủa ghê rợn, chói tai thì nó run sợ đến ớn lạnh xương sống, run rẩy cả đến mẩu chót cái đuôi xù lông. Các con cuống quýt lần vào góc sâu, nằm co dúm lại và cứ nằm mãi như thế rất lâu cả sau khi cơn sóng gió đã qua đi.
Từ trước tới giờ nó chỉ sống trong thế giới tình thương. Nhưng bây giờ nỗi sợ hãi đã bắt đầu thâm nhập vào cái thế giới đó rồi.
II – NỖI BẤT HẠNH
Trong những người thợ săn rất phổ biến ý kiến cho rằng hình như cáo không động đến chuồng gia cầm ở gần nơi hang nó. Nó cố không làm cho người láng giềng gần gũi nổi cơn thịnh nộ và vì thế luôn luôn tìm cách kiếm mồi ở những trang trại xa hơn.
Rất có thể vì lí do đó mà ở chuồng gà của Giúc mọi cái đều tốt đẹp, còn ở trai Bentơn thì gà cứ mất luôn luôn. Cụ Bentơn cũng giống như tất cả mọi người không thể chịu đựng mãi được, và đến khi hơn một phần tư số gà trứ danh của cụ mất tăm thì cụ thực sự phát khùng lên.
Vào ngày chủ nhật kế đó hai đứa con trai nhà Bentơn là Xi và Bét đi ngang qua đỉnh đồi vừa lúc nghe thấy con chó của Giúc sủa theo vết cáo. Hai chú bé này không mấy thân thiện với con chó nên chẳng muốn can thiệp vào chuyện của nó. Các chú dừng lại, đứng trên cao quan sát cuộc rượt đuổi trong thung lũng, theo dõi xem cáo xỏ mũi chó một cách linh hoạt như thế nào sau khi đã chán không muốn chạy nữa.
Nhưng các chú bé chưa kịp cất bước thì con cáo lại hiện ra, lần này ngoạm trong miệng một con gà mái trắng phau. Nhà Bentơn rất hãnh diện về đàn gà trắng nòi của mình, và rõ ràng là cáo tha chính con gà của chúng. Gà trắng rất dễn nhận ra từ xa, và hai chú bé chẳng tốn công gì cũng theo dõi được kẻ ăn trộm đến tận hang của nó.
Sau nửa giờ đồng hồ chúng đã đứng giữa đám lông trắng phau của con gà thuần chủng. Các chú bé thử luôn cây sào dài thọc vào hang, nhưng sào bị mắc kẹt ở khúc ngoặt của hang và lũ cáo con tuy sợ chết khiếp nhưng vẫn an toàn. Hai con cáo bố mẹ, lúc đó cứ chạy tới chạy lui trong rừng ngay gần hang. Chúng hoảng sợ chạy khỏi hang nhưng cáo con còn bị kẹt lại nơi đó cho nên cái hang cứ thôi thúc chúng quay về. Chúng cố lại gần hang nhưng mỗi lần nghe thấy tiếng người thì chạy lại chạy đi và lần vào bụi cây.
Mặc dù cái hang nằm trên địa phận sở hữu của nhà Giúc nhưng các chú bé nhà Bentơn vẫn quyết định ngày hôm sau quay trở lại và lôi lũ cáo con ra. Tuy nhiên cáo mẹ đã lo xa trước nỗi nguy hiểm đe dọa ngôi nhà của nó. Ngay sau khi các chú bé bỏ đi nó đã bắt tay vào việc đào một cái hang mới và đến lúc bình minh thì tiến hành di chuyển gia đình.
Nếu những người dân nông thôn muốn lựa chọn con mèo con tốt nhất trong số những con mới sinh thì họ dùng một phương pháp tự nhiên và đơn giản là mang lũ mèo con ra ngoài đồng trống. Mèo mẹ chẳng mấy chốc đã tìm ra con và bắt đầu tha chúng về. Con đầu tiên nó tha về sẽ được coi là con mèo con tốt nhất. Đó là một dấu hiệu đáng tin cậy. Con mèo linh lợi nhất bao giờ cũng leo lên trên cả đám mèo con, làm cho mẹ nó chú đến trước nhất, và chính do thế mà mẹ nó tha nó về trước mọi con khác.
Trong hang cũ Domino là con cáo nhanh nhẹn nhất, khỏe mạnh nhất ra đón mẹ trước tiên, và mẹ nó mang nó đầu tiên qua nơi ở mới, an toàn. Sau đó mẹ nó tha con khỏe nhất trong số các chị em gái của nó, rồi đến lượt thằng em trai vạm vỡ. Trong thời gian này bố chúng canh gác ở các ngọn đồi lân cận.
Trời sáng dần. Cáo mẹ vừa lên đường với con cáo con thứ ba thì cáo bố phát tín hiệu báo động.
Các chú bé nhà Bentơn đã xuất hiện, mang theo thuổng và cuốc chim để đào hang cáo. Nhưng vừa đào được ba bước chân thì chúng vấp phải một tảng đá lớn. chúng đang bàn luận cách làm thì nghe thấy tiếng nổ rầm rầm đưa đến từ công trường khai thác đá ở trong núi. Thế là chúng có ngay một kế hoạch hành động. Một chú bé chạy vào công trường và quay trở lại với một gói thuốc nổ. Chúng đặt gói thuốc vào khe nứt của tảng đá. Một phút sau tiếng nổ khủng khiếp làm rung chuyển cả sườn đồi. Khi đám mây nụi tan đi cửa hang đầy những hòn đá lớn. Chắc chắn là lũ cáo con còn lại ở trong hang đã bị đè bẹp hoặc chết ngạt. Tiếng nổ đã biến nơi cư trú thành nấm mộ, và các chú bé bỏ đi.
Giá như các chú bé quay lại nơi đây vào ban đêm thì chúng sẽ được chứng kiến cảnh cáo bố và cáo mẹ dùng chân bới đất như thế nào và cắn xé một cách vô ích những mẩu đá hoa cương để cố chui vào cái hang thân yêu. Đêm hôm sau cáo lại đến nữa. Đến đêm thứ ba chỉ có một mình cáo mẹ đến và sau đó nó cũng từ bỏ luôn mọi cố gắng đào bới vô vọng.
III – NHÀ MỚI
Ngôi nhà mới của cáo nằm cách nhà cũ một dặm và không ở trên đồi nữa. Nó nằm lui xuống phía dưới, gần mé sông, nơi đây con sông rời bỏ đồi núi và chảy len lỏi giữa đồng cỏ. Tại đó, cáo dựng ngôi nhà mới ở giữa một chỗ trũng rộng lớn có vách đá bao bọc xung quanh, có rễ cây hoàn điệp liễn và bạch dương quấn vào nhau dày đặc. Cửa ra vào có hai tảng đá lớn che chắn. Hang cũ nằm trên sườn đồi, trong rừng thông, còn cái hang này đào trong lòng trũng phủ bóng hoàng điệp liễu. Thông reo rì rầm và thở dài muôn thuở, còn hoàng điệp liễn lúc nào cũng run rẩy và lo âu. Và dòng sông đưa những cơn sóng của mình đi mãi với khúc nhạc âm vang. Ngay từ cửa vào hang đã bắt đầu là bụi cỏ rậm rạp, kéo dài đến tận một vũng sông êm đềm mọc đầy cỏ lác. Sườn dốc xanh tốt này được dùng làm chỗ chơi đùa của ba chú nhóc, và suốt mùa hè, ở nơi đây có thể có hàng vài chục lần quan sát thấy cái cảnh cũ rích cáo bố đi săn trở về nhà. Cỏ xung quanh nhàu nát vì cáo con nô đùa, vật lộn. Chúng lớn nhanh như thổi, nhưng nhanh nhất là con cáo có vệt đen trên mõm, cái vệt cứ mỗi ngày một đen hơn.
Cáo bố mẹ bắt đầu dạy chúng đi săn. Cáo con hầu như không bú sữa nữa và ăn những gì mà cha mẹ chúng ăn. Thế là bố mẹ chúng thu xếp để bắt buộc lũ trẻ tìm lấy thức ăn giống như chúng tự đi kiếm lấy. Bố mẹ không mang thức ăn về hang nữa mà để ở trong rừng, cứ mỗi ngày một xa dần theo đà lớn lên của các con.
Vừa nghe thấy tiếng mẹ gọi là lũ con lao ngay vào rừng, và ở trong đó chúng bắt đầu chơi một trò chơi nghiêm chỉnh mà kết quả sẽ quyết định bữa ăn trưa của chúng. Chúng lao vào các bụi cây, tìm kiếm và quay cuồng dọc theo sườn dốc phủ đầy cỏ, vừa láo liên vừa hít hít từng hố nhỏ.
Chúng lướt đi mới vui vẻ làm sao, chúng bứt lên trước nhau khi hơi gió mách bảo chúng phải chúng chạy về hướng nào, và thật tuyệt diệu làm sao, cuối cùng chúng đã học được cách phóng như bay theo chân bố mẹ đến thẳng nơi cất giấu thức ăn.
Chúng được dạy cách săn mồi như vậy, Con cáo con móm đen sáng dạ nhất, mạnh khỏe nhất và nhanh nhẹn nhất. Nó khéo tìm ra thức ăn cất giấu hơn tất cả và vì thế được ăn uống tốt hơn. Nó thường xuyên chiếm được miếng to nhất, béo bở nhất. Nó lớn nhanh hơn các con khác và sự khác biệt ngày càng ngày càng dễ nhận ra. Nó lại còn có một nét khác biệt nữa bởi bộ lông xám đen thời thơ ấu của nó ngày càng xẫm màu hơn. Trên mình các anh chị nó bắt đầu lốm đốm những đám lông màu hung và vàng, màu lông đặc trưng của giống nhà cáo, còn lông nó thì ngày một đen đi, và mõm với bốn chân lại đen hoàn toàn.
Đó là cuối tháng bảy. Cáo bố mẹ không ngừng miệt mài kiếm miếng ăn cho bầy con từ các trang trại gần đó mà còn chăm lo giữ gìn chúng khỏi mọi hiểm ngụy Tiếng sủa chát chúa của con chó đen luôn luôn vang lên gần nơi lòng trũng chúng ở, và mỗi lần nghe thấy tiếng sủa đó là con cáo đen con lại run lên. Nhưng thường thường cáo bố hoặc cáo mẹ tiến ra đối mặt với kẻ thù và luôn luôn đánh lừa được chó bằng một mưu mẹo đơn giản nào đó buộc chó phải trở về nhà tay không. Trong vùng cách núi đá ven sông cáo đánh lừa chó dễ đến mức chúng bắt đầu coi thường kẻ địch thủ vụng về của mình và quá tin vào tài khéo của bản thân.
Một bữa, khi cả ba chú cáo con đang chạy tới chạy lui sục tìm trên bãi cỏ con mồi mà cáo bố vừa mang về, thì bống đâu một con chó đốm nhảy xô vào chúng.
Lũ cáo con khiếp sợ, tiếng sủa oang oang bỏ chạy tán loạn nhưng con cáo bé nhất không kịp né tránh đã bị hàm răng kếch xù của con cho ngoạm chặt.
Thảm họa không bao giờ chỉ giáng xuống một lần, Tinh mơ ngày hôm sau cáo bố vừa bắt được một con vịt chạy về thì bỗng tiếng chó sủa buộc nó phải chạy trệch khỏi cái hướng đi quá quen thuộc với nó. Nó rơi vào một con đường nhỏ chạy dọc theo hai bờ giậu cao. Nó không thể chui qua bờ giậu với con vịt ngậm chặt trong mồm. Cáo chạy dọc bờ giậu, nhưng lũ chó đã đuổi kịp nó. Nó bèn luồn nhanh sang một lối đi ngang bắt gặp đầu tiên. Than ôi! kẻ bất hạnh rơi ngay vào một sân nhà có con chó khác, và thế là kết thúc cuộc đời nó.
Gia đình nó không biết gì về chuyện này. Cáo bố không trở về, không mang mồi kiếm được về. Mẹ và hai đứa con bị bỏ đói. Con đói đó là tất cả những gì chúng nhận biết được trong ngày hôm ấy.
Trong cái hang ở giữa rừng hoàng điệp liễn chỉ còn cáo mẹ và hai đứa con. Cáo mẹ đành gánh vác tất cả nỗi gian truân vất vả. Tuy nhiên, nó cũng đã gần hết trách nhiệm đối với bầy con. Suốt tháng tám cáo con theo mẹ đi rất xa săn mồi và tự tìm lấy thức ăn. Đến tháng chín con cái đã to bằng mẹ, còn con đức lông xám màu thì lớn vượt hẳn mẹ và khỏe hơn mẹ rất nhiều. Bây giờ mối quan hệ giữa em gái với anh và giữa mẹ với con trai đã thay đổi: cả hai con cái bắt đầu xa lánh chàng cáo đẹp trai to lớn đó và cuối cùng chúng tránh né nó.
Cáo mẹ và cáo con còn sống chung với nhau, nhưng một bản năng khó nhận thấy nào đó đã phá tan mối quan hệ gia đình. Chúng giữ tình bạn với con cáo đen to lớn khi tình cờ gặp nhau, nhưng rõ ràng chúng tránh những cuộc gặp gỡ đó. Vậy là chàng Domino “chạy nhanh” sau khi đã học được cách tự lo lấy cho mình liền rời bỏ vùng trũng trong rừng liễu và bắt đầu cuộc sống của một con cáo độc thân.
IV – TRANG PHỤC MỚI VÀ CUỘC SỐNG MỚI
Từ đó Domino bước vào thế giới rộng lớn đầy rẫy giông tố cuộc đời, vượt xa ngoài phạm vi cái góc nhỏ thân yêu dưới tàn liễu. Nay nó bắt đầu một cuộc sống tự lập và chỉ trông cậy vào sức lực bản thân để có thể no nê và toàn vẹn. Mỗi ngày nó thêm một thông minh hơn, thận trọng hơn và đẹp đẽ hơn.
Ngay sau khi rời khỏi cái hang thân thuộc nó đã buộc phải chạy thoát khỏi một cuộc săn đuổi và hiểu rằng tài mưu trí giải cứu cho mình tốt hơn bất cứ đôi chân nhanh nhẹn nhất nào. Ngoài ra nó còn phát hiện được là trong giây phút hiểm nghèo nó có một người bạn trung thành mà nó vẫn thấy hàng ngày từ trước nhưng chỉ bây giờ nó mới có dịp làm quen.
Một lần hai con chó đuổi theo Domino và do chạy quá lâu theo các vách đá để thoát khỏi chúng nên nó đã bị cạnh đá cứa rách chân. Hôm đó là một ngày khô hanh và oi bức. Sau khi dốc hết sức chạy, Domino đã bỏ xa được những kẻ đuổi bắt. Nó lao vút về con sông với ý định làm dịu bớt mấy cái chân bê bết máu, mỏi rã rời và nóng bừng bừng. Nó trườn xuống sông, lê bước theo bờ nước nông ngược dòng chảy, tận hưởng cái mát mẻ. Nó đi trong nước được chừng một phần tư dặm thì bỗng lại nghe tiếng chó sủa tiến lại gần và nhìn thấy chó chạy tới bờ sông theo dấu chân nó. Chú cáo non trẻ ẩn nấp trong bụi cây trên một cù lao nhỏ, và từ nơi ẩn náu an toàn đó nó sung sướng theo dõi lũ chó bị mất dấu ở chỗ mép nước rồi cứ chạy tới chạy lui dọc bờ sông để cố tìm nó, nhưng cuối cùng chẳng tìm được gì phải quay về mà hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Có thể con cáo không hiểu rành rẽ rằng nước đã che đậy dấu vết, nhưng trong đầu óc nó hình thành một ý niệm: sông là nơi rất tốt có thể giúp tránh được mối nguy hiểm khó thoát. Sau này điều đó còn được khẳng định thêm nhiều lần nữa. Ở nơi đó, bên bờ phía hạ lưu có một bãi cát dương như không in lại dấu vết và do đó không thể tố cáo sự có mặt của kẻ chạy trốn. Khi mùa đông đến và dòng sông phủ một lớp băng mỏng lấp lánh, Domino đã nhận ra rằng băng nâng đỡ nó rất tuyệt nhưng lại vỡ ra dưới chân chó làm cho chó rơi tõm xuống nước.
Nhưng nơi có lợi nhất té ra là cái bờ dốc dựng đứng lởm chởm đá trên bờ sông. Dưới chân dốc có một con đường mòn lượn quanh, đoàn đầu khá to nhưng đoạn sau thu hẹp lại đến mức cáo lách qua còn chật vật và thành ra quá hẹp đối với chó săn. Con đường mòn đó vòng ra mũi đất rồi thoai thoải chạy lên vách đá và dẫn vào rừng, nơi mà đến đây bằng bất cứ con đường nào khác cũng phải mất không dưới hai năm.
Ngoài ra, Domino còn nhận thấy rằng khi không săn được gì ở những nơi khác thì ở bên dòng sông bao giờ cũng có thể tìm thấy một cái gì đó ăn được. Lúc là một con cá bị quăng lên bờ, lúc là một con chim chết, hoặc cùng lắm là một con ếch, tất cả đều có thể làm dịu cơn đói. Thế là trong óc nó hình thành một điều khẳng định vững chắc: nói chung dòng sông là nơi tuyệt diệu, rất có ích trong những giây phút khó khăn của cuộc sống. Con sông đã trở thành người bạn nó.
Vào thời gian này con thú mới lớn của chúng ta thay đổi hẳn và mối nguy hiểm luôn đe dọa cuộc sống của nó cũng tăng lên gấp bội.
Khi thời tiết bắt đầu bước vào những đêm thu trẻ trung, lông của Domino trở nên dày hơn, xốp hơn và thay màu. Mỗi ngày lông một xẫm hơn cho đến lúc cuối cùng sắc hung và xám hoàn toàn biến mất hoàn toàn. Và bất cứ người nào am hiểu về lông thú đều có thể nói: “Đó phải chăng là dấu hiệu báo trước một vẻ đẹp không thể mong ước gì hơn. Phải chăng con cáo mới trưởng thành sẽ trỏe nên một con cáo nâu đen thực thụ?”
Kiếm được bộ lông con cáo nâu đen – đó là một thứ hạnh phúc to lớn vô cùng mà người thợ săn chỉ dám mơ ước đến mà thôi. Thế nhưng cái báu vật đó lại được chính bản thân con thú giữ gìn cẩn thận bằng sự tinh khôn và nhanh nhẹn của mình.
Cáo nâu đen chỉ về mùa đông mới khác biệt rõ rệt với loại cáo khác. Cáo nâu đen con, khi còn chưa thay bộ lông thời thơ ấu, rất dễ nhầm với những con cáo bình thường. Chỉ lúc mùa đông đến gần mới có thể khám phá ra vẻ đẹp của anh chàng nhiều diễm phúc. Và thế là khi mùa thu qua đi và những đêm băng giá ập tới vùng Gônđe thì bộ lông mùa đông xẫm màu của Domino ngày càng mịn và dày hơn, cái đuôi có đốt cuối màu đen bóng. Những điểm lông trắng óng ánh xuất hiện trên nền lông đen như bóng đêm thật chẳng khác gì những ngôi sao sáng điểm rải rác trên bầu trời ban đêm. Ai đã từng trông thấy con cáo con lem nhem hồi tháng sáu khó mà nhận ra nó vào tháng Mười Một này với toàn bộ vẻ lộng lẫy huy hoàng của bộ quần áo mùa đông trang nhã. Domino đã biến thành một con cáo nâu đen tuyệt diệu.
V – CÁO ĐẸP MÃ VÀ CON QUÁI VẬT
Chẳng bao lâu mọi người đều biết rằng ở Gônđe xuất hiện một con cáo nâu đen. Người ta nhìn thấy con cáo đẹp mã ấy nhiều lần, nó là một kỳ quan trong số những con thú săn lấy lông và một số người còn thậm chí cho rằng con chó Ghêchla lông đen của Giuc đã nhiều lần đuổi theo dấu chân nó. Điều này chí ít cũng là do chính Giúc kể lại, tuy rằng bạn bè thường cười diễu coi là chuyện phịa và khẳng định rằng con cáo nâu đen rất khinh thường con chó ngốc nghếch, và bao giờ cũng đánh lạc hướng được chó bằng một trong những vô vàn mánh khóe của nó sau khi đã bắt con chó chạy thục mạng theo nó.
Ghêchla có tiếng sủa tuyệt vời: to, trầm và vang xa đến mức gặp đêm yên tĩnh có thể nghe rõ cách hàng vài dặm. Tiếng sủa thực ra là máy móc, bởi vì con chó không hề thay đổi cách sủa trong lúc chạy, ngay cả lúc chạy về nhà theo dấu chân của chính mình.
Đám trẻ con trai nhà Giúc tưởng tượng rằng Ghechla là một con chó săn mẫu mực, tuyệt vời. Nhưng láng giềng lại cho rằng đó chỉ là sự pha tạp một cái bẫy cáo và một cái còi xe lửa, mà lại còn là một con vật hung dữ và càu quạu. Những người công tâm hơn thì xác nhận Ghêchia là một con chó to lớn, chạy nhanh, dữ tợn, có giọng sủa thật độc đáo, khó quên.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng sủa của Ghêcla lúc nó bị nhốt trong trang trại. Cái tiếng sủa oang oang, dễ sợ, chát chúa đó cứ âm vang bên tai tôi mãi suốt cả ngày.
Thế rồi một lần, vào mùa thi khi hoàng hôn buông xuống, tôi đang lang thang trong rừng dưới chân đồi Gônđe thì tiếng chó sủa chát chúa từ đàng xa vọng đến làm cho thính giác của tôi phải sửng sốt. Tôi nhận ra ngay lập tức và đoán là Ghêchla đang chạy theo dấu một con thú nào đó. Tôi lắng nghe và hiểu ngay câu chuyện xảy ra. Tôi nghe thấy tiếng lá cây lay động nhẹ, và một khoảnh khắc sau đã thấy hiện ra một con thú kỳ diệu: con cáo có bộ lông đen như than. Nó khựng lại một phút, đặt hai chân trước lên cái cây đổ và ngoảnh nhìn về phía có kẻ thù. Con cáo cách tôi cả thảy có năm chục bước, và tôi hiểu mình cần phải làm gì: tôi đặt tay lên môi rồi lấy hơi tắc lưỡi thật to. Con cáo quay ngoắt lại và trườn nhanh về phía tôi.
Khi giữa chúng tôi chỉ còn không đầy hai chục bước, nó dừng lại trong tư thế duyên dáng, đôi tai căng thẳng chờ đợi, cái đuôi hơi cụp xuống và chân trước co lên như muốn cố xác định xem cái tiếng tặc lưỡi giả làm tiếng chuột hoặc thỏ kia từ đâu đưa lại.
Chao ôi, bộ lông mới đẹp làm sao!
Mới là đầu thu nhưng trên nền lông đen bóng đã nổi rõ chòm lông ngực trắng như tuyết và màu cuối đuôi màu sáng. Đôi mắt màu vàng của con cáo sáng rực lên như những đốm lửa nhỏ, còn những chấm lông lóng lánh ánh bạc thì bao quanh đầu và cổ nó như vầng hào quang. Tôi cảm thấy chưa lần nào trong đời được nhìn thấy một tạo vật tuyệt tác như vậy. Cuối cùng tôi đã hiểu đó đích thức là con cáo nâu đen vùng Gônđe. Tôi đứng yên không nhúc nhích, con vật cũng bất động. Dường như điều này vẫn thường hay xảy ra: loài vật có lẽ không nghĩ ra rằng đứng trước nó là một con người. Nhưng con cáo đã nghe tthấy tiếng chó sủa oang oang lại gần, đó là Ghếch la chạy theo dấu chân nó. Nó liền quay phắt lại, tiếp tục chạy. Tôi lại tắc lưỡi và lại có diễm phúc ngắm nghía lần nữa cái dáng đứng kiều diễm của con thú đang lo sợ. Nhưng tôi đã có một cử động thiếu thận trọng làm lộ mình và con cáo biến mất trong nháy mắt.
Sau mười phút, một con thú khác hiện ra, cứ cách vài bước nó lại sủa cầm chừng một tiếng. Nó chui qua các bụi cây, làm gãy tất cả những gì cản trở trên đường đi. Nó vụng về, nặng nề, đôi mắt đỏ ngầu như máu và chẳng để ý đến cái gì khác ngoài những dấu vết để lại trên mặt đất, nó tiến lên phía trước với bộ mặt bướng bỉnh, lầm lì. Đó chính là con Ghêchla trứ danh định thử sức với nhân vật chạy nhanh nhất trong số dân cư vùng đồi Gônđê.
Tôi bất giác cảm thấy rừng mình phải chứng kiến cái cảnh con thú to béo, phục phịch đánh hôi và tìm ra chính xác mỗi chỗ ngoặt của dấu chân cáo. Tôi thấy thật ghê người khi nghĩ mỗi chỗ ngoặt của dấu chân cáo. Tôi thấy thật ghê người khi nghĩ rằng dấu vết kia có thể nói cụ thể là con cáo chạy hướng nào. Chính vì thế mà Ghêchla không bối rối, do dự một chút nào. Tôi tặc lưỡi gọi chó nhưng có lẽ chỉ gọi một cái bẫy cáo nào đó thì mới mong đạt được kết quả mà thôi. Con chó chỉ có một ý nghĩa duy nhất là không để mất dấu, đuổi theo kỳ được con cáo. Và sau đó ra sao thì tôi có thể căn cứ vào đôi mắt dữ dằn, ngầu máu của con chó và túm lông dựng đứng trên trán nó mà đoán ra được dễ dàng. Chính bản thân tôi cũng đi săn cáo và ưa thích kiểu săn bằng chó, nhưng ngày hôm nay cái hình ảnh một tạo vật kỳ diệu con chó ngao Xecbe nhẫn tâm săn đuổi và khó lòng thoát khỏi tay nó đã gây cho tôi ấn tượng y như đang đứng trước hình ảnh một con rắn độc định xiết nghẹt một con chim nhỏ có giọng hát tuyệt vời.
Tôi đã lãng quên tình bạn lâu đời giữa người và chó, và từ đó trở đi chuyển tình cảm của mình sang con cáo nâu đen.
VI – ĐỜI SỐNG MÙA ĐÔNG CỦA DOMINO
VII – DOMINO TÌM ĐƯỢC BẠN ĐỜI
PHẦN THỨ HAI – CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH
VIII – MÙA XUÂN
IX – SỰ KIỆN
X – KẺ THÙ CŨ
XI – CON HƯƠU ĐAMA
XII – BÙA MÊ
XIII – MẬT NGỌT CHẾT RUỒI
XIV – MÙA HÈ VÀ CÔ GÁI NHỎ
XV – NGƯỜI THỪA KẾ DOMINO
PHẦN THỨ BA
THỬ THÁCH VÀ THẮNG LỢI
XVI – NGỖNG TRỜI
XVII – KẺ GIẾT CỪU
XVIII – VỊ CỨU TINH CỦA YẾN TRẮNG
XIX – THỬ THÁCH LÒNG DŨNG CẢM
XX – DÒNG SÔNG VÀ BÓNG ĐÊM
some text about author